Hạ tầng công nghệ – Linh Blogs https://www.linh.pro Blog chia sẻ thông tin công nghệ Wed, 24 Sep 2025 02:11:21 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/linh/2025/08/linh.svg Hạ tầng công nghệ – Linh Blogs https://www.linh.pro 32 32 Việt Nam sắp có thị trường tài sản số https://www.linh.pro/viet-nam-sap-co-thi-truong-tai-san-so/ Wed, 24 Sep 2025 02:11:19 +0000 https://www.linh.pro/viet-nam-sap-co-thi-truong-tai-san-so/

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính đang tích cực xây dựng dự thảo Nghị quyết về thí điểm thị trường tài sản mã hóa, với mục tiêu tạo ra một khung pháp lý rõ ràng cho thị trường này tại Việt Nam. Ông Tô Trần Hòa, Phó trưởng ban Phát triển thị trường chứng khoán, cho biết dự thảo này sẽ cho phép thành lập doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa, với các yêu cầu khắt khe về công nghệ thông tin và an ninh mạng.

Các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường tài sản mã hóa sẽ phải đáp ứng yêu cầu về vốn, công nghệ và tuân thủ tiêu chuẩn an ninh mạng cấp độ 4. Điều này nhằm đảm bảo an toàn và an ninh cho thị trường. Dự thảo cũng xác định tài sản mã hóa không phải là phương tiện thanh toán, mà tập trung vào hoạt động giao dịch, chuyển nhượng để phục vụ phòng chống rửa tiền.

Ông Hòa nhấn mạnh rằng việc quản lý tài sản mã hóa sẽ bao gồm tất cả tổ chức phát hành, cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư… mua bán, tham gia thị trường mã hóa. Điều này thể hiện sự quyết tâm của cơ quan quản lý trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh an toàn và minh bạch cho thị trường tài sản mã hóa.

Trước đó, ông Mai Huy Tuần, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Công nghệ số SSI (SSID), cho biết công ty đã chuẩn bị suốt ba năm qua để tham gia thị trường tài sản mã hóa. Công ty đã sẵn sàng về hạ tầng kỹ thuật, quy trình vận hành cũng như vốn để tham gia thị trường này ngay khi khung pháp lý được ban hành.

SSID, thành lập năm 2022, do Chứng khoán SSI nắm hơn 68% vốn điều lệ, tập trung vào việc nghiên cứu phát triển công nghệ cao, ứng dụng trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, chuyển đổi số và tài sản mã hóa. Ông Tuần cho biết việc tham gia thị trường tài sản mã hóa sẽ giúp công ty mở rộng hoạt động kinh doanh và cung cấp các dịch vụ mới cho khách hàng.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính trình dự thảo Nghị quyết về thí điểm thị trường tài sản mã hóa trước ngày 15/7. Dự thảo này sẽ giúp tạo ra một khung pháp lý rõ ràng cho thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam, khuyến khích sáng tạo và đầu tư trong lĩnh vực này.

Đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chia sẻ rằng việc xây dựng khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa sẽ không tìm cách bóp nghẹt thị trường, mà xây dựng cơ chế pháp lý vừa đủ để quản lý, đồng thời khuyến khích sáng tạo và đầu tư. Cơ quan quản lý sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết và trình lên Thủ tướng Chính phủ.

Một trong những yêu cầu quan trọng đối với doanh nghiệp muốn vận hành sàn giao dịch tài sản số là phải có vốn tối thiểu 10.000 tỷ đồng, gấp 3 lần việc thành lập một ngân hàng và 33 lần công ty hàng không. Điều này thể hiện sự quyết tâm của cơ quan quản lý trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh an toàn và minh bạch cho thị trường tài sản mã hóa.

Dự kiến, dự thảo Nghị quyết về thí điểm thị trường tài sản mã hóa sẽ được ban hành trong thời gian tới, tạo ra một cơ hội mới cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia vào thị trường này. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng các yêu cầu khắt khe về vốn, công nghệ và tuân thủ tiêu chuẩn an ninh mạng để đảm bảo an toàn và an ninh cho thị trường.

]]>
Intech Group muốn làm chip bán dẫn, khởi động với sản xuất linh kiện https://www.linh.pro/intech-group-muon-lam-chip-ban-dan-khoi-dong-voi-san-xuat-linh-kien/ Mon, 04 Aug 2025 08:23:23 +0000 https://www.linh.pro/intech-group-muon-lam-chip-ban-dan-khoi-dong-voi-san-xuat-linh-kien/

Các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu, nhưng cần có những bước đi phù hợp và chiến lược cụ thể. Ông Cao Đại Thắng, Tổng giám đốc Intech Group, chia sẻ kinh nghiệm rằng việc bắt đầu từ những bước nhỏ, tập trung vào từng công đoạn cụ thể hoặc các mô hình công nghệ phù hợp với năng lực của doanh nghiệp là chìa khóa thành công.

Xây dựng những mô hình công nghệ đơn giản, hiệu quả giúp doanh nghiệp giải bài toán thực tế (ảnh minh hoạ)
Xây dựng những mô hình công nghệ đơn giản, hiệu quả giúp doanh nghiệp giải bài toán thực tế (ảnh minh hoạ)

Ông Thắng cho biết rằng nhiều dự án thất bại không phải vì ý tưởng không thuyết phục, mà vì chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, vượt quá sức chịu đựng của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp startup. Tuy nhiên, nếu biết bắt đầu đúng cách, từng phần, ở từng phân xưởng, bài toán chi phí có thể được giải quyết, mở ra các cơ hội hợp tác. Intech Group đã có những đối tác quốc tế trong ngành và các doanh nghiệp này bày tỏ thiện chí sẵn sàng hợp tác với các đối tác Việt Nam nếu có được mô hình khởi động phù hợp.

Điều kiện tiên quyết là hạ tầng có thật, con người sẵn sàng, mô hình đầu tư thông minh cho phép tận dụng được lợi thế chi phí, lao động và ý chí học hỏi của người Việt. Từ thực tế đó, Intech Group đã có kế hoạch triển khai xây dựng trung tâm hạ tầng công nghệ quy mô nhỏ để hỗ trợ sản xuất linh kiện, vi mạch. Ông Cao Đại Thắng cho rằng cách tạo đà này không phải là thứ gì xa vời, bắt đầu từ hệ thống hàn dây, đóng gói, đo kiểm… chính là những bước rất thiết thực để xây dựng năng lực sản xuất dần dần.

Ông Nguyễn Đức Minh, Phó hiệu trưởng trường Điện – điện tử (Đại học Bách khoa Hà Nội), đồng quan điểm rằng điểm nghẽn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp SME, là nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, cơ hội vẫn sẽ đến nếu doanh nghiệp lựa chọn hướng đi phù hợp với điều kiện nhằm phát huy lợi thế nhất định của mình là khả năng thích ứng nhanh, linh hoạt.

Bước đi phù hợp được ông Nguyễn Đức Minh gọi là “du kích công nghệ”. Thay vì loay hoay căng sức phục vụ thị trường lớn, việc chọn phân khúc phù hợp – thị trường ngách để khởi đầu đã và đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Các chuyên gia đánh giá rằng việc tập trung vào một phân khúc thị trường nhỏ, chuyên biệt nhưng vừa sức là cách làm phù hợp với doanh nghiệp SME, chưa có tiềm lực lớn. Bằng cách này, các doanh nghiệp có thể tăng cường năng lực sản xuất, tạo đà cho sự phát triển trong tương lai.

Với cách tiếp cận này, các doanh nghiệp Việt Nam có thể từng bước tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu, tận dụng được lợi thế của mình và tạo ra những cơ hội hợp tác mới. Để biết thêm thông tin về các cơ hội và thách thức trong lĩnh vực công nghệ, vui lòng truy cập https://www.vietnamtimes.vn để cập nhật những tin tức mới nhất.

]]>
Hàn Quốc giúp Việt Nam triển khai hệ thống truyền thông không gian cho Internet 6G https://www.linh.pro/han-quoc-giup-viet-nam-trien-khai-he-thong-truyen-thong-khong-gian-cho-internet-6g/ Fri, 01 Aug 2025 02:40:06 +0000 https://www.linh.pro/han-quoc-giup-viet-nam-trien-khai-he-thong-truyen-thong-khong-gian-cho-internet-6g/

Công ty khởi nghiệp Hàn Quốc Spacebit đã thiết lập quan hệ hợp tác với Công ty Cổ phần Giải pháp Công nghệ Thông tin Quốc tế ITS và Viện Nghiên cứu Điện tử và Viễn thông Hàn Quốc (ETRI) nhằm triển khai hệ thống truyền thông không gian tại Việt Nam. Sự hợp tác này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc áp dụng công nghệ truyền thông không gian vào thực tế tại Đông Nam Á, mở ra cơ hội phát triển mô hình hạ tầng lai kết hợp giữa vệ tinh và mặt đất. Mục tiêu chính là cung cấp khả năng kết nối nhanh chóng, rộng khắp và bền vững hơn cho người dùng.

Công nghệ truyền dẫn được sử dụng trong dự án này là kết quả nghiên cứu của ETRI, cho phép truyền dữ liệu ổn định ở tốc độ cao qua môi trường quang, ngay cả trong điều kiện địa lý hoặc thời tiết bất lợi. Viện ETRI đã phát triển công nghệ AOWC (Adaptive Optical Wireless Communication) từ năm 2016 và đã chuyển giao công nghệ này cho Spacebit để thương mại hóa. AOWC là một giải pháp giúp đảm bảo kết nối ổn định và tốc độ cao, ngay cả trong những điều kiện khắc nghiệt.

Dự án sẽ triển khai tại 24 địa điểm chiến lược trên cả nước, hướng đến thiết lập một mạng truyền thông tốc độ siêu cao. Mạng này có thể hoạt động độc lập hoặc song song với mạng cáp quang hiện có, giúp tăng cường khả năng kết nối và độ tin cậy. Công nghệ này không chỉ phục vụ cho các ngành công nghệ cao mà còn giúp người dân ở những nơi khó tiếp cận hạ tầng được kết nối tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển của các khu vực nông thôn và vùng sâu.

Bên cạnh công nghệ AOWC, dự án này còn sử dụng DTN (Delay/Disruption Tolerant Networking) – một lớp nền tảng giúp duy trì kết nối trong mọi tình huống. DTN hoạt động theo cơ chế ‘lưu – chuyển tiếp’, dữ liệu được lưu tại các điểm trung gian và sẽ tiếp tục truyền đi khi kết nối được thiết lập lại. Điều này giúp đảm bảo rằng dữ liệu luôn được truyền tải một cách hiệu quả, ngay cả trong trường hợp có sự gián đoạn.

Ông Park Jung-tae, CEO của Spacebit, cho biết Việt Nam là thị trường lý tưởng để khởi đầu cho dự án này, không chỉ vì tiềm năng tăng trưởng mà còn vì sự ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ cho chuyển đổi số. Spacebit tin rằng từ đây, họ có thể tiếp cận nhanh hơn với các thị trường tương tự trong khu vực, tận dụng sự phát triển và nhu cầu tại Việt Nam như một bàn đạp cho các thị trường khác.

Đại diện của ITS Việt Nam cũng chia sẻ rằng công nghệ truyền thông không gian không chỉ phục vụ cho các ngành công nghệ cao mà còn giúp người dân ở những nơi khó tiếp cận hạ tầng được kết nối tốt hơn. Sự hợp tác giữa Spacebit, ITS và ETRI là một ví dụ tiêu biểu cho mô hình hợp tác công – tư – nghiên cứu trong kỷ nguyên deeptech. Việc chọn Việt Nam làm bàn đạp cho chiến lược này không phải là ngẫu nhiên, vì Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược, hạ tầng pháp lý đang được hoàn thiện nhanh chóng và nhu cầu số hóa rất lớn ở cả đô thị lẫn nông thôn.

ETRI là một tổ chức nghiên cứu hàng đầu tại Hàn Quốc, chuyên về các công nghệ điện tử và viễn thông. Với việc chuyển giao công nghệ AOWC cho Spacebit, ETRI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của công nghệ truyền thông không gian.

Spacebit là một công ty khởi nghiệp Hàn Quốc chuyên về công nghệ truyền thông không gian. Với việc hợp tác cùng ITS và ETRI, Spacebit đang đẩy mạnh chiến lược thương mại hóa công nghệ truyền thông không gian tại Đông Nam Á, bắt đầu từ Việt Nam.

ITS là một công ty cổ phần giải pháp công nghệ thông tin quốc tế tại Việt Nam. Sự hợp tác với Spacebit và ETRI thể hiện cam kết của ITS trong việcนำ vào các công nghệ mới nhất để phục vụ cho sự phát triển của Việt Nam.

]]>
Thái Nguyên đẩy mạnh công nghệ số để phát triển kinh tế bền vững https://www.linh.pro/thai-nguyen-day-manh-cong-nghe-so-de-phat-trien-kinh-te-ben-vung/ Tue, 22 Jul 2025 00:56:41 +0000 https://www.linh.pro/thai-nguyen-day-manh-cong-nghe-so-de-phat-trien-kinh-te-ben-vung/

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa mạnh mẽ, việc kết hợp hài hòa giữa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần nâng cao chất lượng sống, tăng cường hiệu quả quản trị nhà nước, đảm bảo an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Tỉnh Thái Nguyên đã nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của đổi mới sáng tạo gắn với công nghệ số và đã triển khai nhiều biện pháp quyết liệt để hiện thực hóa mục tiêu này.

Người dân đến làm thủ tục hành chính tại phường Phan Đình Phùng được giải quyết nhanh gọn, thuận tiện.
Người dân đến làm thủ tục hành chính tại phường Phan Đình Phùng được giải quyết nhanh gọn, thuận tiện.

Tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Chương trình hành động và Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh đã hoàn thành 22/23 nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 57-NQ/TW có thời hạn đến 30/6, đạt tỷ lệ hoàn thành 95,6%. Tỉnh cũng đang triển khai đúng tiến độ 42 nhiệm vụ có thời hạn đến 31/12/2025, trong đó có 11 nhiệm vụ hoàn thành trước thời hạn.

Thái Nguyên đang triển khai 6 công trình, sản phẩm công nghệ số và 20 mô hình ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Những nỗ lực này không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả điều hành, quản lý của chính quyền mà còn phục vụ thiết thực nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Tỉnh đã hoàn thành nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, kết nối hệ thống giải quyết thủ tục hành chính với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo Nghị định 107/2021/NĐ-CP.

Một trong những điểm nhấn đáng chú ý là việc hoàn thiện hồ sơ đề án thành lập Khu công nghệ thông tin tập trung Yên Bình. Việc hình thành một khu công nghệ – thông tin tập trung sẽ mở ra không gian kết nối, hợp tác cho các doanh nghiệp công nghệ cao, tạo động lực thu hút đầu tư và phát triển các sản phẩm số ‘Make in Vietnam’ từ Thái Nguyên. Theo thông tin trên website của Chính phủ Việt Nam, việc thành lập khu công nghệ thông tin này sẽ giúp Thái Nguyên trở thành một trong những địa điểm thu hút đầu tư hàng đầu tại Việt Nam.

Trong lĩnh vực cải cách hành chính, việc ứng dụng công nghệ số cũng mang lại hiệu quả rõ rệt. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính phiên bản mới đang được triển khai toàn diện trên địa bàn tỉnh. Từ đầu năm đến 25/6/2025, toàn tỉnh đã tiếp nhận hơn 361.000 hồ sơ, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt 99,55%; số hóa được hơn 321.000 hồ sơ, tương đương 95,45%. Bộ Nội vụ Việt Nam đã đánh giá cao những nỗ lực của tỉnh Thái Nguyên trong việc ứng dụng công nghệ số vào cải cách hành chính.

Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, Thái Nguyên cũng thẳng thắn nhìn nhận những mặt hạn chế cần khắc phục, như: Hạ tầng công nghệ tại một số xã còn yếu; đội ngũ cán bộ vận hành chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, đồng bộ… Đây là những vấn đề cần sớm được quan tâm tháo gỡ nhằm tạo thuận lợi cho quá việc phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.

Tỉnh cũng đang tích cực thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghệ, dữ liệu và bán dẫn. Đã có những biên bản ghi nhớ, xúc tiến đầu tư được ký kết giữa Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Nguyên với các đối tác trong và ngoài nước. Việc phát triển hạ tầng dữ liệu, xây dựng trung tâm dữ liệu tại địa phương sẽ là bước đi chiến lược tạo nền móng cho kinh tế số phát triển bền vững, an toàn và độc lập.

Thái Nguyên cũng đang xây dựng và hoàn thiện nền tảng quản trị tổng thể G-ThaiNguyen, tích hợp các chỉ số kinh tế – xã hội trọng yếu như thu ngân sách, giải ngân đầu tư công, FDI, GRDP, chỉ số giáo dục… Việc vận hành hiệu quả nền tảng này sẽ giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực dự báo, phản ứng chính sách và chỉ đạo điều hành một cách khoa học, dữ liệu hóa, minh bạch và kịp thời.

Có thể thấy, đổi mới sáng tạo gắn với công nghệ số không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu tất yếu. Thái Nguyên đang từng bước khẳng định quyết tâm vươn lên trở thành địa phương tiên phong trong lĩnh vực này, góp phần đưa khoa học, công nghệ và chuyển đổi số thực sự trở thành động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững, vì lợi ích của người dân và cộng đồng doanh nghiệp.

]]>
Chuyển đổi số khu vực công: Đầu tư hạ tầng và bảo vệ an ninh mạng https://www.linh.pro/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-dau-tu-ha-tang-va-bao-ve-an-ninh-mang/ Sun, 20 Jul 2025 19:41:27 +0000 https://www.linh.pro/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-dau-tu-ha-tang-va-bao-ve-an-ninh-mang/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức và rào cản cần được giải quyết. Ông Nguyễn Hữu Thái Hòa, Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM – VUSTA, Chủ tịch VDIC, Trung tâm Thông tin Truyền thông số Việt Nam của Hội Truyền Thông Số, cho rằng việc chuyển đổi số chỉ được xem như một nhiệm vụ công nghệ đơn thuần mà không gắn liền với cải cách thể chế, quản trị và đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực công thì rất khó tạo ra đột phá thực chất.

Một trong những rào cản lớn nhất hiện nay là hạ tầng công nghệ tại các cơ quan Nhà nước còn rất lạc hậu, thiếu đồng bộ và khó tích hợp. Nhiều nơi vẫn sử dụng hệ thống lưu trữ dữ liệu rời rạc, không tương thích, gây cản trở việc kết nối, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành, địa phương. Ông Hòa cũng chỉ ra rằng không có một kiến trúc công nghệ thống nhất, việc kết nối dữ liệu dân cư, thuế, y tế, tài chính… trở thành bài toán nan giải, dù các hệ thống đó đã được đầu tư lớn trong nhiều năm.

Tổng mức đầu tư cho các chương trình chuyển đổi số khu vực công bao gồm hạ tầng dữ liệu dân cư, căn cước công dân gắn chip, Cổng dịch vụ công quốc gia, nền tảng số ngành dọc… đã vượt hàng nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phân bổ ngân sách thiếu đồng đều giữa trung ương và địa phương, khiến các cấp cơ sở khó có khả năng triển khai đồng bộ. Ông Hòa cũng nhấn mạnh rằng chuyển đổi số khu vực công còn đối mặt với bài toán nhân lực công nghệ cao. Các chuyên gia giỏi về trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, phân tích dữ liệu thường lựa chọn khu vực tư nhân hoặc các công ty công nghệ lớn do chính sách lương thưởng vượt trội.

Trong khi đó, cán bộ, công chức tại nhiều cơ quan hành chính, đặc biệt ở tuyến huyện, xã thiếu kỹ năng số, thiếu cả động lực và tâm thế thích nghi với công nghệ mới. Một thách thức khác là nguy cơ tấn công mạng ngày càng lớn khi dữ liệu nhạy cảm như thông tin công dân, tài chính, y tế… được số hóa và lưu trữ tập trung, nhưng lại thiếu lớp bảo vệ pháp lý và công nghệ tương xứng. Hệ thống pháp luật về bảo mật dữ liệu, an toàn thông tin, lưu trữ số… vẫn chưa bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ, gây ra khoảng trống trong việc xử lý sự cố và đảm bảo niềm tin số cho người dân.

Để tháo gỡ những nút thắt hiện nay, ông Hòa nêu 4 đề xuất: tăng ngân sách đầu tư hạ tầng số, phát triển nguồn nhân lực số cho khu vực công, khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia cung cấp giải pháp số cho khu vực công và xây dựng trung tâm giám sát an ninh mạng quốc gia, đồng thời ban hành khung pháp lý chặt chẽ về bảo mật dữ liệu, quyền riêng tư và lưu trữ số. Điều này sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong khu vực công, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực công và tạo ra đột phá thực chất trong thời gian tới.

Tham khảo thêm thông tin tại: https://www.vietnamnet.vn/

]]>
Chuyển đổi số trong khu vực công: Thách thức và cơ hội cho một hệ thống chính phủ số https://www.linh.pro/chuyen-doi-so-trong-khu-vuc-cong-thach-thuc-va-co-hoi-cho-mot-he-thong-chinh-phu-so/ Sat, 19 Jul 2025 21:11:16 +0000 https://www.linh.pro/chuyen-doi-so-trong-khu-vuc-cong-thach-thuc-va-co-hoi-cho-mot-he-thong-chinh-phu-so/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng và nhân lực. Tuy nhiên, quá trình này cũng mở ra cơ hội lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng dịch vụ công. Để xây dựng một hệ thống chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quản lý nhà nước, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc.

Thách thức chuyển đổi số khu vực công

Tại Diễn đàn ‘Chuyển đổi số khu vực công – Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội’ diễn ra ngày 17/7, ông Phạm Mạnh Hùng – Phó Tổng Giám đốc VOV cho biết, khu vực công được xác định là người dẫn đường và là tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế – xã hội thông qua quá trình số hóa và thích ứng nhanh chóng. Chuyển đổi số trong khu vực công là một đột phá hàng đầu và là động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, thúc đẩy kinh tế – xã hội và ngăn chặn nguy cơ tụt hậu.

Tuy nhiên, việc triển khai quá trình chuyển đổi số trong khu vực công cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức về hạ tầng số. Đặc biệt là ở cấp cơ sở, dữ liệu chưa đồng bộ, thiếu kết nối, thiếu chia sẻ giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, tâm lý e dè đổi mới ở một số nơi. Cùng với đó, hệ thống thể chế và chính sách pháp luật về chuyển đổi số còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hòa – Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM/VUSTA, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, thách thức lớn nhất trong chuyển đổi số khu vực công là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn sử dụng các hệ thống công nghệ cũ kỹ, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc tích hợp các giải pháp số hóa mới.

Xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc

Ông Chử Đức Hoàng – Chánh văn phòng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) kiến nghị, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam đang tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển. Trong đó, việc hình thành các cơ chế thử nghiệm đóng vai trò then chốt, cho phép kiểm tra và hoàn thiện các giải pháp số hóa trước khi triển khai rộng rãi.

Để cụ thể hóa những định hướng này, việc thể chế hóa các quy định pháp luật là vô cùng cần thiết. Một trong những yếu tố cốt lõi để hiện thực hóa chuyển đổi số là việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành đồng bộ, liên thông.

Chuyển đổi số thành công đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ vào con người và một niềm tin vững chắc vào đội ngũ. Nếu thiếu đi niềm tin, mọi nỗ lực sẽ trở nên vô nghĩa. Điều này đặc biệt đúng khi xây dựng đội ngũ công nghệ thông tin (IT) và chuyên gia – những nhân tố cốt lõi cho sự phát triển.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hoà đề xuất, cần tăng ngân sách cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng số, như trung tâm dữ liệu quốc gia và mạng 5G, đặc biệt ở các địa phương. Đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo kỹ năng số cho cán bộ, công chức, hợp tác với các trường đại học và doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực công nghệ.

Việt Nam cần khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển giải pháp số cho khu vực công, như ứng dụng AI, blockchain, hoặc IoT. Ngoài ra, cần triển khai các chiến dịch truyền thông để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo các nền tảng dễ sử dụng và hỗ trợ đa ngôn ngữ.

]]>