Hạ tầng số – Linh Blogs https://www.linh.pro Blog chia sẻ thông tin công nghệ Sun, 07 Sep 2025 00:38:49 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/linh/2025/08/linh.svg Hạ tầng số – Linh Blogs https://www.linh.pro 32 32 Hà Nội đẩy mạnh xây dựng chính quyền số, dữ liệu số trong các lĩnh vực then chốt https://www.linh.pro/ha-noi-day-manh-xay-dung-chinh-quyen-so-du-lieu-so-trong-cac-linh-vuc-then-chot/ Sun, 07 Sep 2025 00:38:47 +0000 https://www.linh.pro/ha-noi-day-manh-xay-dung-chinh-quyen-so-du-lieu-so-trong-cac-linh-vuc-then-chot/

Thủ đô Hà Nội đang tích cực đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực, bao gồm xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số và hiện đại hóa các phương thức phục vụ. Những nỗ lực của thành phố đã mang lại nhiều kết quả nổi bật trong việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Ngay từ đầu năm 2025, UBND TP. Hà Nội đã chỉ đạo quyết liệt việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Quyết định số 204-QĐ/TW của Ban Bí thư về chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng. Thành phố tập trung vào các trụ cột quan trọng như hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.

Về xây dựng chính quyền số, Hà Nội đã triển khai hiệu quả 5 trụ cột chính: Hạ tầng số, nền tảng và hệ thống số, dữ liệu số, ứng dụng dịch vụ số và đảm bảo an toàn thông tin mạng. Thành phố đã chuẩn hóa, làm sạch và liên thông dữ liệu trong các lĩnh vực then chốt như người có công, an sinh xã hội, hộ tịch, bảo trợ xã hội và trẻ em.

Trong lĩnh vực giáo dục, Hà Nội đã thí điểm học bạ số cho toàn bộ học sinh trung học cơ sở và trung tâm giáo dục thường xuyên từ học kỳ II năm học 2024-2025. Lĩnh vực giao thông cũng đã chứng kiến bước đột phá khi Thành phố tiên phong ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong điều hành, tối ưu hóa đèn tín hiệu và xử lý vi phạm giao thông.

Trong hệ thống các cơ quan Đảng, đoàn thể Thành phố, chuyển đổi số được Thành ủy Hà Nội chỉ đạo quyết liệt với nhiều sáng kiến đồng bộ. Một dấu ấn nổi bật là việc tích hợp thành công 4 thủ tục hành chính Đảng lên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Văn Phong nhấn mạnh: “Dữ liệu số là tài sản, là nền tảng cho phát triển và quản trị thông minh. Người đứng đầu các đơn vị phải trở thành hạt nhân, người truyền cảm hứng và dẫn dắt công cuộc chuyển đổi số”.

Hà Nội cũng là địa phương đi đầu trong thực hiện Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Thành phố đã triển khai hiệu quả các nền tảng như: Ứng dụng Công dân Thủ đô số – iHanoi, sổ sức khỏe điện tử, cấp lý lịch tư pháp trên VNeID…

Tới đây, Hà Nội sẽ tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số hiện đại, phục vụ toàn diện cho người dân và doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo đà cho sự phát triển bền vững của thành phố.

]]>
Nâng cao kỹ năng số cho người dân: Hành trình đồng hành của chính quyền và nhân dân https://www.linh.pro/nang-cao-ky-nang-so-cho-nguoi-dan-hanh-trinh-dong-hanh-cua-chinh-quyen-va-nhan-dan/ Mon, 28 Jul 2025 10:39:18 +0000 https://www.linh.pro/nang-cao-ky-nang-so-cho-nguoi-dan-hanh-trinh-dong-hanh-cua-chinh-quyen-va-nhan-dan/

Việc học làm công dân số là một hành trình dài, đòi hỏi sự kiên nhẫn, thích nghi và đồng hành giữa chính quyền và nhân dân. Mục tiêu là giúp người dân thấy được tiện lợi của chuyển đổi số trong đời sống để mọi người chủ động tham gia.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số đã thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, từ học tập, lao động, hành chính công, thương mại đến giao tiếp xã hội. Trong bối cảnh đó, khái niệm công dân số ngày càng được quan tâm. Hiện nay, người dân sử dụng điện thoại thông minh và internet chiếm tỷ lệ cao, tạo nền tảng quan trọng cho việc thực hiện chuyển đổi số toàn dân.

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người dân, đặc biệt là người cao tuổi, lao động phổ thông và người sống ở vùng sâu, vùng xa, dù có thiết bị kết nối mạng nhưng chưa có kỹ năng tận dụng các tiện ích của công nghệ số. Họ gặp khó khăn trong việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến hay thanh toán điện tử.

Để hỗ trợ người dân, tổ công nghệ số cộng đồng đã đến từng hộ dân hướng dẫn cài đặt ứng dụng, tạo tài khoản định danh điện tử, đăng ký tiêm vaccine và thanh toán hóa đơn điện, nước trực tuyến. Tỉnh đoàn cũng đã triển khai các đội hình tình nguyện hỗ trợ chính quyền cơ sở triển khai mô hình hành chính điện tử và chuyển đổi số tại 102 đơn vị hành chính cấp xã.

Người dân, đặc biệt là người lớn tuổi và người ít tiếp xúc với công nghệ, thường mang tâm lý e ngại khi tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến và tiện ích công nghệ. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của đoàn viên, thanh niên, họ đã có thể tự tin và thành thạo hơn trong việc sử dụng các dịch vụ này.

Học làm công dân số không chỉ là học cách sử dụng công nghệ mà còn học cách sống an toàn và có trách nhiệm trên không gian mạng. Người dân cần có kỹ năng nhận diện đối với các hành vi lừa đảo trên nền tảng số và biết cách bảo vệ thông tin cá nhân của mình. Do đó, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân nâng cao ý thức cảnh giác và chú ý bảo mật quyền riêng tư trên tài khoản là rất cần thiết.

Tóm lại, việc học làm công dân số là một quá trình dài hạn, đòi hỏi sự nỗ lực và hợp tác giữa chính quyền và nhân dân. Mục tiêu là giúp người dân tận dụng được các tiện ích của công nghệ số để cải thiện đời sống và phát triển kinh tế – xã hội.

]]>
76.000 doanh nghiệp công nghệ số đang làm thay đổi bộ mặt kinh tế Việt Nam https://www.linh.pro/76-000-doanh-nghiep-cong-nghe-so-dang-lam-thay-doi-bo-mat-kinh-te-viet-nam/ Sat, 26 Jul 2025 20:39:31 +0000 https://www.linh.pro/76-000-doanh-nghiep-cong-nghe-so-dang-lam-thay-doi-bo-mat-kinh-te-viet-nam/

Trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang trở thành một trong những mục tiêu trọng tâm của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Với gần 76.000 doanh nghiệp công nghệ số đang hoạt động và 739 doanh nghiệp mới được thành lập trong tháng 5, Việt Nam đang cho thấy những tín hiệu tích cực trong quá trình chuyển đổi số và phát triển khoa học công nghệ.

Ngày 20/7 vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chủ trì phiên họp lần thứ 3 của Ban Chỉ đạo về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06. Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong 6 tháng đầu năm, các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành 76/106 nhiệm vụ theo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW. Những nỗ lực này đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong việc xây dựng thể chế, phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực và tài chính cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 16 dự án luật và 3 nghị quyết, đồng thời ban hành 21 nghị định để tháo gỡ những vướng mắc và thúc đẩy các lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đến nay, cả nước đã có 889 tổ chức nghiên cứu và 858 doanh nghiệp khoa học công nghệ, với hơn 42.000 lao động. Sự ra đời của Cổng sáng kiến giải pháp khoa học công nghệ và Sàn giao dịch khoa học công nghệ quốc gia đã góp phần kết nối các sáng kiến với thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.

Về chuyển đổi số quốc gia, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai trên các trụ cột: Hạ tầng số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh. Đáng chú ý, tốc độ mạng di động và cố định của Việt Nam đã tăng mạnh, lần lượt đứng thứ 20 và 26 thế giới. Số lượng trạm 5G đã tăng hơn 4.200 trạm trong 6 tháng đầu năm, với tổng số 12.106 trạm. Ngoài ra, hai tuyến cáp quang biển mới đã đi vào hoạt động, tăng gấp đôi dung lượng hệ thống cáp quang biển quốc tế của Việt Nam.

Trong lĩnh vực kinh tế số, doanh thu 6 tháng đầu năm đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ. Số lượng doanh nghiệp công nghệ số đã tăng lên gần 76.000, với 739 doanh nghiệp mới thành lập trong tháng 5. Điều này cho thấy sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của lĩnh vực kinh tế số tại Việt Nam.

Ngoài những kết quả tích cực, vẫn còn một số vướng mắc cần được giải quyết. Cụ thể, có 30 nhiệm vụ quá hạn trong số 106 nhiệm vụ được giao. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung vào phát triển công nghệ chiến lược và ngành công nghiệp nền tảng trong 6 tháng cuối năm. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phủ sóng vùng lõm, thúc đẩy nhanh mạng 5G.

Tập đoàn VNPT sẽ khẩn trương hoàn thành cơ sở hạ tầng tại 238 thôn bản lõm sóng trước ngày 31/8 và phát sóng chậm nhất tại 238 thôn bản trong tuần thứ 2 của tháng 9. Trong cải cách thủ tục hành chính, các bộ, ngành phải rà soát 1.139 thủ tục để cắt giảm hồ sơ, đồng thời đơn giản hóa quy trình, chuyển toàn bộ thủ tục sang hình thức trực tuyến và triển khai đồng bộ tại chính quyền địa phương hai cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

]]>
Lâm Đồng tiên phong chuyển đổi số toàn diện với Tập đoàn Viettel https://www.linh.pro/lam-dong-tien-phong-chuyen-doi-so-toan-dien-voi-tap-doan-viettel/ Wed, 23 Jul 2025 02:54:00 +0000 https://www.linh.pro/lam-dong-tien-phong-chuyen-doi-so-toan-dien-voi-tap-doan-viettel/

Lâm Đồng là tỉnh tiên phong trên cả nước hợp tác với Tập đoàn Viettel để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số ngay sau khi thực hiện sáp nhập các tỉnh. Sự kiện này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của chính quyền tỉnh trong việc ổn định bộ máy và thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng. Ông Hồ Văn Mười, Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, cho biết rằng mặc dù tỉnh đã triển khai một số hạng mục về chuyển đổi số, vẫn còn nhiều việc cần tiếp tục thực hiện hoặc đẩy mạnh hơn nữa, đặc biệt là việc đồng bộ hóa dữ liệu và các nền tảng từ các tỉnh đã sáp nhập.

Tại buổi làm việc với Tập đoàn Viettel, UBND tỉnh Lâm Đồng đã đề xuất hỗ trợ toàn diện trong lĩnh vực chuyển đổi số trên các mặt chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Mục tiêu của tỉnh là xây dựng một hạ tầng số đồng bộ, cơ sở dữ liệu dùng chung và các nền tảng tích hợp, từ đó nâng cao hiệu quả quản trị và phục vụ người dân cũng như doanh nghiệp thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin.

Đồng chí Phó TGĐ Tập đoàn Cao Anh Sơn chia sẻ về những nhóm việc và lộ trình cụ thẻ của các chương trình hành động số cho tỉnh
Đồng chí Phó TGĐ Tập đoàn Cao Anh Sơn chia sẻ về những nhóm việc và lộ trình cụ thẻ của các chương trình hành động số cho tỉnh

Cụ thể, Lâm Đồng đề nghị Viettel hỗ trợ phát triển hạ tầng số mạnh mẽ và kết nối 4G/5G trên toàn tỉnh, triển khai Hệ thống một cửa điện tử, ứng dụng chữ ký số trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Ngoài ra, tỉnh cũng mong muốn Viettel hỗ trợ kết nối, làm sạch và đồng bộ dữ liệu từ các tỉnh cũ, triển khai hệ thống báo cáo phân tích dữ liệu và cảnh báo sớm để phục vụ công tác điều hành của UBND tỉnh.

Thác K50 mộng mơ mùa hoa ngô đồng giữa đại ngàn Kon Chư Răng
Thác K50 mộng mơ mùa hoa ngô đồng giữa đại ngàn Kon Chư Răng

Bên cạnh đó, tỉnh Lâm Đồng cũng bày tỏ mong muốn Tập đoàn Viettel xem xét và chọn Lâm Đồng làm địa điểm để triển khai các dự án về nhà máy công nghệ cao, như nhà máy bán dẫn, trung tâm dữ liệu. Ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch và Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, đã trực tiếp trao đổi với lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng, lắng nghe các đề xuất và chia sẻ kinh nghiệm triển khai chuyển đổi số của Viettel.

Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình
Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình

Theo ông Thắng, để triển khai chuyển đổi số thành công, cần tập trung vào 6 mục tiêu trọng yếu, bao gồm hoàn thiện thể chế và quy định tại các cơ quan, đơn vị để chuyển đổi sang môi trường số; thu thập, liên thông và số hóa dữ liệu; xây dựng và nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin; xây dựng các ứng dụng trên nền tảng số; đảm bảo an ninh, an toàn thông tin; và cuối cùng là bảo đảm nguồn lực cho quá trình triển khai.

Tỉnh Lâm Đồng được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba tỉnh cũ gồm Lâm Đồng, Đắk Nông và Bình Thuận. Sau sáp nhập, tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước với 24.233 km², dân số khoảng 3,87 triệu người và 124 đơn vị hành chính cấp xã. Trong năm 2024, GRDP của tỉnh đạt 319.887 tỷ đồng, tăng trưởng 4,02% so với năm trước, xếp hạng 8/34 trên toàn quốc.

Việc sáp nhập mang đến cho Lâm Đồng những cơ hội phát triển mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đa dạng và không gian rộng mở để triển khai chuyển đổi số ở các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như nông nghiệp và du lịch. Tuy nhiên, Lâm Đồng cũng đối mặt với nhiều thách thức như quy mô địa bàn rộng, địa hình phức tạp, sự đa dạng về dân tộc… Đây là những yếu tố đòi hỏi sự nỗ lực và sáng tạo trong việc triển khai các giải pháp chuyển đổi số phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.

]]>
Thương mại điện tử Việt Nam hướng tới 30 tỷ USD vào năm 2030 https://www.linh.pro/thuong-mai-dien-tu-viet-nam-huong-toi-30-ty-usd-vao-nam-2030/ Mon, 21 Jul 2025 09:46:34 +0000 https://www.linh.pro/thuong-mai-dien-tu-viet-nam-huong-toi-30-ty-usd-vao-nam-2030/

Thương mại điện tử tại Việt Nam đang trải qua một giai đoạn phát triển ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc trong giai đoạn 2020-2025. Dự kiến, quy mô của lĩnh vực này sẽ đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Trên cơ sở nền tảng vững chắc này, mục tiêu đặt ra cho thương mại điện tử Việt Nam đến năm 2030 là đạt quy mô 30 tỷ USD, chiếm khoảng 15% tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT
Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT

Trong giai đoạn 2021-2025, thương mại điện tử Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ, một phần nhờ vào việc đầu tư bài bản về hạ tầng và khung pháp lý. Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, đặc biệt là các nghị định liên quan đến thương mại điện tử, ngoại thương, thị trường và các mô hình kinh doanh số. Bên cạnh đó, việc xây dựng Luật Thương mại điện tử và nghiên cứu sửa đổi Luật Thương mại đã đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; thúc đẩy tính minh bạch, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên không gian số.

Song song với việc hoàn thiện thể chế, hạ tầng thương mại và logistics cũng được chú trọng đầu tư. Tính đến năm 2023, Việt Nam đã có hơn 30.000 kho bãi và 6 trung tâm logistics cấp quốc gia. Điều này đã giúp chỉ số hiệu quả logistics của Việt Nam tăng 10 bậc, từ vị trí 53 lên vị trí 43. Hạ tầng số phục vụ thương mại điện tử cũng được đẩy mạnh. Bộ Công Thương hiện cung cấp 267 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 100% thủ tục hành chính được thực hiện ở mức độ 3 và 4 trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, giúp doanh nghiệp thương mại điện tử tiết kiệm thời gian và chi phí vận hành.

Một yếu tố then chốt góp phần mở rộng không gian thị trường cho hàng hóa và dịch vụ thương mại điện tử chính là việc Việt Nam tích cực ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong giai đoạn 2020-2025, Việt Nam đã ký thêm 4 FTA, nâng tổng số lên 17 hiệp định với 65 đối tác toàn cầu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.

Namun, sự phát triển nhanh của thương mại điện tử cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý thị trường và bảo vệ người tiêu dùng. Trong giai đoạn 2021-2025, gần 290.000 vụ việc đã được kiểm tra, trong đó gần 200.000 vụ vi phạm đã bị cơ quan chức năng xử lý. Điều này cho thấy cần có những giải pháp hiệu quả hơn để quản lý và kiểm soát hoạt động của thương mại điện tử.

Để thực hiện các mục tiêu đến năm 2030, Bộ Công Thương tập trung hoàn thiện Luật Thương mại điện tử; tiếp tục ban hành các chính sách liên quan đến quản lý dữ liệu, bảo vệ người tiêu dùng số, logistics và công nghệ thanh toán. Bên cạnh đó, mở rộng hệ thống logistics phục vụ thương mại điện tử, nâng cao năng lực kho vận, giao hàng nhanh và hiệu quả. Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn giao dịch xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển.

Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính sách, hạ tầng và nguồn lực, thương mại điện tử được kỳ vọng sẽ đóng vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế số hàng đầu khu vực. Sự phát triển của thương mại điện tử không chỉ giúp tăng cường cạnh tranh và đổi mới mà còn mở ra nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.

]]>
Bộ Khoa học và Công nghệ quyết tâm chuyển đổi số: Tầm nhìn đến năm 2030 https://www.linh.pro/bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-quyet-tam-chuyen-doi-so-tam-nhin-den-nam-2030/ Mon, 21 Jul 2025 07:52:00 +0000 https://www.linh.pro/bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-quyet-tam-chuyen-doi-so-tam-nhin-den-nam-2030/

Trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay, Trung tâm Công nghệ thông tin của Bộ Khoa học và Công nghệ đang đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số cũng như công nghệ số. Với vị thế là hạt nhân về công nghệ thông tin, chuyển đổi số và an toàn thông tin mạng, Trung tâm đã tích cực triển khai các nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn 2023-2024.

Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025 - 2030. Ảnh: TTTT
Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025 – 2030. Ảnh: TTTT

Trung tâm đã duy trì hoạt động ổn định của hệ thống chính phủ điện tử của Bộ, với tỷ lệ văn bản ký số đạt 94,57% vào năm 2023. Hệ thống này đã tiếp nhận và xử lý hơn 146.000 văn bản đến và hơn 130.000 công việc trong năm 2024. Ngoài ra, Trung tâm cũng triển khai mô hình bảo vệ bốn lớp nhằm đảm bảo năng lực phòng thủ số trước các nguy cơ tấn công mạng.

Bên cạnh đó, Trung tâm còn đóng vai trò chiến lược trong truyền thông chính sách số, với hơn 12.000 tin bài được đăng tải và gần 400 sản phẩm đa phương tiện được sản xuất mỗi năm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Hệ thống thông tin đã truyền tải các chủ trương về chuyển đổi số, an toàn thông tin, dữ liệu số và 5G đến người dân, doanh nghiệp và địa phương.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Chi bộ Trung tâm đặt mục tiêu trở thành đơn vị hạt nhân về hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số, phục vụ công tác quản lý nhà nước và sự nghiệp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Trung tâm sẽ hoàn thiện, nâng cấp các nền tảng công nghệ phục vụ điều hành, cải cách hành chính; phát triển hệ thống thông tin quản lý tích hợp, kết nối ba cấp chính quyền; phát triển dịch vụ công trực tuyến mức độ cao với tỷ lệ dịch vụ toàn trình đạt 100%.

Cụ thể, Chi bộ đề ra các mục tiêu: 100% văn bản được ký số; 95% văn bản trao đổi qua hệ thống điều hành điện tử; 100% cán bộ chuyên môn được đào tạo kỹ năng số hằng năm. Trung tâm cũng sẽ phát triển theo 5 trụ cột, bao gồm xây dựng nền tảng quản trị số của Bộ, quy hoạch và phát triển hạ tầng số theo mô hình cloud-first, phát triển hệ thống giải quyết thủ tục hành chính tích hợp đa kênh, phát triển kho dữ liệu số liên ngành và xây dựng Trung tâm điều hành an toàn, an ninh mạng.

Tại Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030, tổ chức hôm 10/7 tại Hà Nội, ông Đỗ Công Anh, Bí thư Chi bộ, Giám đốc Trung tâm cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ luôn thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính, hiện đại hóa phương thức quản lý nhà nước. Qua đó, Trung tâm Công nghệ thông tin sẽ tiếp tục phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số, góp phần vào sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030 là dịp để Trung tâm Công nghệ thông tin của Bộ Khoa học và Công nghệ nhìn lại những kết quả đã đạt được trong thời gian qua và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ mới cho giai đoạn tới. Với những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra, Trung tâm sẽ tiếp tục là đơn vị nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số của Bộ Khoa học và Công nghệ.

]]>
Chuyển đổi số khu vực công – tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội https://www.linh.pro/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-tien-de-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/ Sat, 19 Jul 2025 13:22:34 +0000 https://www.linh.pro/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-tien-de-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/

Sáng ngày 17/7, hơn 200 đại biểu từ các bộ, ban, ngành, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp Nhà nước đã tham dự Diễn đàn ‘Chuyển đổi số khu vực công – Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội’ do Báo Điện tử Tiếng nói Việt Nam (VOV) tổ chức. Diễn đàn này nhắm tới việc làm rõ vai trò của khu vực công trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia và khẳng định rằng chuyển đổi số khu vực công là tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Các đại biểu dự diễn đàn.
Các đại biểu dự diễn đàn.

Việc ứng dụng công nghệ số trong khu vực công không chỉ giúp tối ưu hóa hoạt động của các cơ quan Nhà nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận dịch vụ công nhanh chóng. Đặc biệt, chuyển đổi số trong doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững.

Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng phát biểu khai mạc diễn đàn.
Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng phát biểu khai mạc diễn đàn.

Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng phát biểu khai mạc diễn đàn, cho biết chuyển đổi số là xu thế tất yếu và đòi hỏi khách quan của sự phát triển trong thời đại hiện nay. Tại Việt Nam, chuyển đổi số đã được xác định là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, chuyển đổi số khu vực công cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức về hạ tầng số, dữ liệu và nguồn nhân lực.

Diễn đàn này là cơ hội để các đại biểu, chuyên gia và nhà hoạch định chính sách trao đổi, hiến kế và tháo gỡ những ‘nút thắt’ đang cản trở quá trình chuyển đổi số khu vực công. Mục tiêu là đưa chuyển đổi số khu vực công tiến gần hơn tới mục tiêu phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn và góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/6/2024 của Bộ Chính trị đã xác định chuyển đổi số là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng. Với định hướng đột phá thể chế cho phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Nghị quyết 57 không chỉ đặt ra những mục tiêu dài hạn mà còn định vị lại vai trò của khu vực công trong hệ sinh thái số quốc gia.

Tuy nhiên, chuyển đổi số khu vực công không đơn thuần là bài toán công nghệ hay kỹ thuật hạ tầng. Đây là vấn đề kinh tế – tổ chức ở cấp quốc gia, liên quan trực tiếp đến hiệu quả phân bổ ngân sách, năng suất vận hành của bộ máy hành chính và năng lực kiến tạo và điều tiết thị trường của Nhà nước.

Chuyển đổi số khu vực công sẽ khó tạo ra đột phá thực chất nếu chỉ được nhìn nhận như một nhiệm vụ công nghệ đơn thuần. Chỉ khi chuyển đổi số được tích hợp vào quá trình cải cách kinh tế – thể chế, được đo lường bằng hiệu quả phân bổ nguồn lực, năng suất khu vực công và tác động lan tỏa tới thị trường, thì mới có thể phát huy vai trò là một ‘nền tảng tăng trưởng mới’.

Diễn đàn ‘Chuyển đổi số khu vực công – Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội’ cũng nhận được sự ủng hộ của các nhà tài trợ, bao gồm Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN), Tổng công ty Khí Việt Nam – Công ty cổ phần (PV GAS), Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – Công ty Cổ phần (PVFCCo), Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PV Drilling), Tổng công ty Dầu Việt Nam – Công ty cổ phần (PVOIL), Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) và Công ty Cổ phần Nhiên liệu bay Petrolimex.

]]>
Quảng Ngãi bứt phá với hạ tầng số và chuyển đổi công nghệ https://www.linh.pro/quang-ngai-but-pha-voi-ha-tang-so-va-chuyen-doi-cong-nghe/ Fri, 18 Jul 2025 22:43:30 +0000 https://www.linh.pro/quang-ngai-but-pha-voi-ha-tang-so-va-chuyen-doi-cong-nghe/

Trong bối cảnh hiện nay, việc đầu tư và hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là ưu tiên hàng đầu giúp các địa phương bứt phá và phát triển nhanh, bền vững. Tỉnh Quảng Ngãi đã và đang đẩy mạnh việc hoàn thiện hạ tầng số, nhằm mang lại hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc phát triển hạ tầng số. Hiện nay, 100% thôn, làng trên địa bàn tỉnh đã được phủ sóng di động 3G, 4G. Mạng 5G đã được triển khai tại các khu đô thị, công nghiệp với 58 trạm BTS. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang đạt 73%, trong khi 83% dân số trưởng thành sở hữu điện thoại thông minh. Những con số này cho thấy sự nỗ lực của tỉnh Quảng Ngãi trong việc xây dựng hạ tầng số để phục vụ cho sự phát triển của địa phương.

Trung tâm dữ liệu tỉnh Quảng Ngãi được đầu tư với dung lượng lưu trữ lên đến 170 TB, vận hành 24 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, kết nối gần 60 ứng dụng. Hệ thống quản lý văn bản điện tử đã được triển khai tới 1.523 cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ sử dụng văn bản điện tử ở cấp sở, ngành đạt hơn 99%. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính vận hành ổn định, cung cấp 732 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, số hóa hồ sơ và kết quả đạt trên 99% ở cấp tỉnh. Điều này cho thấy tỉnh Quảng Ngãi đã có những bước tiến đáng kể trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và điều hành.

Bên cạnh đó, công tác đảm bảo an toàn, an ninh mạng cũng được tỉnh Quảng Ngãi chú trọng. Các hệ thống SOC, phòng chống mã độc đã được triển khai đồng bộ, giúp kịp thời phát hiện và xử lý hơn 4.500 cảnh báo nguy cơ mất an toàn thông tin. Việc đảm bảo an toàn, an ninh mạng là một phần quan trọng của việc xây dựng hạ tầng số, giúp bảo vệ thông tin và dữ liệu của người dân và doanh nghiệp.

Những nỗ lực của tỉnh Quảng Ngãi trong việc hoàn thiện hạ tầng số và đẩy mạnh chuyển đổi số đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững của địa phương. Việc hoàn thiện hạ tầng số không chỉ giúp tỉnh Quảng Ngãi phát triển kinh tế, xã hội mà còn giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Trong thời gian tới, tỉnh Quảng Ngãi sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện hạ tầng số, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và điều hành. Đồng thời, tỉnh cũng sẽ chú trọng đến việc đảm bảo an toàn, an ninh mạng, giúp bảo vệ thông tin và dữ liệu của người dân và doanh nghiệp. Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, tỉnh Quảng Ngãi sẽ tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.

]]>
Việt Nam Đẩy Mạnh Phát Triển Hạ Tầng Số Để Trở Thành Hub Dữ Liệu Khu Vực https://www.linh.pro/viet-nam-day-manh-phat-trien-ha-tang-so-de-tro-thanh-hub-du-lieu-khu-vuc/ Fri, 18 Jul 2025 15:56:39 +0000 https://www.linh.pro/viet-nam-day-manh-phat-trien-ha-tang-so-de-tro-thanh-hub-du-lieu-khu-vuc/

Tự chủ hạ tầng kết nối quốc tế đã trở thành một yếu tố quan trọng để Việt Nam có thể vươn lên bản đồ số toàn cầu. Việc tự chủ hạ tầng kết nối không chỉ đảm bảo hiệu quả truyền dẫn trong nước mà còn mở ra cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường quốc tế. Hạ tầng cáp biển chính là chìa khóa quan trọng để định vị Việt Nam trên bản đồ số toàn cầu.

Xây dựng hạ tầng kết nối toàn cầu, Viettel hỗ trợ doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới
Xây dựng hạ tầng kết nối toàn cầu, Viettel hỗ trợ doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới

Cáp biển là phương tiện truyền dẫn dữ liệu quan trọng, kết nối các quốc gia và khu vực trên thế giới. Hiện nay, hơn 98% lưu lượng Internet quốc tế trên toàn cầu, từ email, giao dịch tài chính, đến các cuộc gọi video, đều đang được truyền tải qua một mạng lưới khoảng hơn 600 tuyến cáp quang biển đang hoạt động, với tổng chiều dài lên tới 1,3 triệu km. Cáp biển là hạ tầng không thể thay thế, là xương sống vật lý của thế giới số. Trong tương lai, dù công nghệ có phát triển đến đâu, cáp biển vẫn sẽ là hạ tầng kết nối quốc tế chính của thế giới.

Bộ trưởng Bộ KH&CN "bật mí" cách thu hút nhân tài toàn cầu về Việt Nam

Tuy nhiên, hạ tầng quan trọng này đang ngày càng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các vấn đề địa chính trị. Cuộc chiến công nghệ giữa các cường quốc như Mỹ và Trung Quốc đã biến các tuyến cáp biển thành một mặt trận chiến lược. Sự phụ thuộc vào hạ tầng của bên thứ ba mang đến những rủi ro hiện hữu như sự ổn định kết nối, khi các quyết định về nâng cấp, sửa chữa hay thậm chí là cắt kết nối có thể bị chi phối bởi yếu tố địa chính trị.

Rủi ro từ sự phụ thuộc vào hạ tầng của bên thứ ba cũng dẫn đến rủi ro về kinh tế, khi phải chấp nhận mức giá thuê băng thông cao hơn và mất đi cơ hội kinh doanh trên chính hạ tầng mà mình đang sử dụng. Vì vậy, tự chủ hạ tầng cáp biển đã trở thành một mệnh đề bắt buộc đối với mọi quốc gia mong muốn một tương lai số độc lập và thịnh vượng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của hạ tầng số, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những định hướng và mục tiêu hết sức rõ ràng. Nghị quyết 71/NQ-CP của Chính phủ đưa ra kế hoạch hành động, cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, đã nhấn mạnh nhiệm vụ phải tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đặc biệt là hạ tầng viễn thông, Internet. Nghị quyết đặt ra yêu cầu phát triển hệ thống đáp ứng được các tiêu chí dự phòng, kết nối, an toàn và bền vững, từ mạng 5G, 6G đến hệ thống cáp quang băng thông rộng tốc độ cao.

Cụ thể hóa tầm nhìn này, Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông đặt ra một mục tiêu đầy tham vọng: đến năm 2030, Việt Nam sẽ triển khai tối thiểu 10 tuyến cáp quang biển mới, nâng tổng số tuyến cáp quang trên biển lên tối thiểu 15 tuyến, với tổng dung lượng tối thiểu 350 Tbps. Đặc biệt, phải tự chủ hệ thống cáp quang bằng cách đưa vào hoạt động tối thiểu 2 tuyến cáp quang trên biển do Việt Nam làm chủ, kết nối trực tiếp tới các Digital Hub trong khu vực.

Tập đoàn Viettel, với đại diện là thành viên Viettel Solutions, đã xây dựng một kế hoạch phát triển hạ tầng kết nối quốc tế bài bản với tầm nhìn dài hạn đến năm 2045 và kế hoạch triển khai chi tiết đến năm 2030. Sự khác biệt mang tính bước ngoặt trong chiến lược của Viettel Solutions lần này nằm ở việc chuyển đổi mô hình đầu tư.

Trước đây, các nhà mạng Việt Nam, bao gồm cả Viettel, chủ yếu tham gia vào các dự án cáp biển dưới hình thức là thành viên trong một Consortium (liên minh). Trong mô hình này, nhiều nhà mạng từ các quốc gia khác nhau sẽ cùng góp vốn để xây dựng một tuyến cáp chung. Mô hình này giúp chia sẻ chi phí đầu tư nhưng cũng đi kèm với sự phụ thuộc vào các quyết định chung của liên minh.

Giờ đây, Tập đoàn Viettel đang đặt ra một mục tiêu thách thức hơn nhiều. Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2030, Viettel sẽ triển khai thêm 5 tuyến cáp biển mới. Trong đó, sẽ có ít nhất 1 tuyến cáp do chính Viettel đứng ra làm chủ hoàn toàn, từ ý tưởng, thiết kế lộ trình, lựa chọn công nghệ cho đến quản lý, vận hành. Đây sẽ là lần đầu tiên một doanh nghiệp Việt Nam tự chủ triển khai một dự án cáp biển quốc tế.

Với chiến lược đầu tư bài bản và dài hạn, Viettel đang củng cố vai trò tiên phong, khẳng định vị thế dẫn đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực hạ tầng cáp biển quốc tế và góp mặt vào nhóm các nhà mạng hàng đầu khu vực về năng lực kết nối xuyên biên giới. Việc tự chủ hạ tầng kết nối không chỉ đảm bảo hiệu quả truyền dẫn trong nước mà còn mở ra cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường quốc tế.

Hạ tầng cáp biển – từ chỗ chỉ được coi là khoản đầu tư kỹ thuật – đang dần trở thành tài sản chiến lược, giúp Viettel hướng tới mô hình cung cấp dịch vụ kết nối quốc tế cho các nhà mạng và tập đoàn công nghệ toàn cầu, góp phần tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Trong kỷ nguyên số, dòng chảy dữ liệu chính là huyết mạch của kinh tế. Việc làm chủ hạ tầng cáp biển chính là làm chủ dòng chảy huyết mạch này.

Chiến lược của Viettel không chỉ là một kế hoạch kinh doanh đơn thuần mà là một phần không thể thiếu trong việc hiện thực hóa tầm nhìn của quốc gia về một Việt Nam tự chủ về công nghệ và có vị thế xứng đáng trên bản đồ số toàn cầu.

]]>
Nâng cao liên kết doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh https://www.linh.pro/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/ Fri, 18 Jul 2025 05:21:13 +0000 https://www.linh.pro/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, liên kết doanh nghiệp đang trở thành một yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới. Thông qua việc liên kết, doanh nghiệp có thể chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi. Từ đó, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)
Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)

Các hình thức liên kết doanh nghiệp hiện nay rất đa dạng, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược. Việc liên kết với doanh nghiệp nước ngoài đã giúp số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng. Liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).
Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản. TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, cho biết rằng mặc dù Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế và tham gia một số khâu của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới, mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu.

Đồng thời, còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết. Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy, các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra.

Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Điều này cho thấy sự cần thiết phải tăng cường liên kết doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp chưa đủ. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, bao gồm việc tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh, xây dựng và phát triển hạ tầng số hiện đại, và chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng.

Các chuyên gia cũng kiến nghị việc cần thiết phải điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

]]>